Nội dung tuyên truyền:
1. Luật Lực lượng dự bị động viên số 53/2019/QH14
Chiều ngày 26/11, Quốc hội biểu quyết thông qua dự ám Luật Lực lượng dự bị động viên với 449/453 đại biểu Quốc hội tham gia biểu quyết tán thành thông qua dự án Luật Lực lượng dự bị động viên (chiếm tỷ lệ 92,96%).
Luật Lực lượng dự bị động viên gồm 5 chương, 41 điều. Trong đó, điều 3 và điều 22 nhận được sự đóng góp ý kiến, quan tâm của các đại biểu Quốc hội, Luật có một số nội dung cơ bản như sau:
Một là, lực lượng dự bị động viên là một thành phần của quân đội.
Luật Lực lượng dự bị động viên quy định về xây dựng, huy động lực lượng dự bị động viên; chế độ, chính sách và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong xây dựng, huy động lực lượng dự bị động viên. Theo đó, Lực lượng dự bị động viên bao gồm quân nhân dự bị và phương tiện kỹ thuật dự bị được đăng ký, quản lý và sắp xếp vào đơn vị dự bị động viên để sẵn sàng bổ sung cho lực lượng thường trực của Quân đội nhân dân. Luật đã khẳng định đơn vị dự bị động viên là tổ chức quân sự.
Hai là quy định 5 hành vi bị nghiêm cấm trong xây dựng, huy động lực lượng dự bị động viên.
Các hành vi bị cấm bao gồm: Trốn tránh thực hiện trách nhiệm của quân nhân dự bị, nghĩa vụ của chủ phương tiện kỹ thuật dự bị được huy động, điều động; chống đối, cản trở việc xây dựng, huy động lực lượng dự bị động viên; huy động, điều động lực lượng dự bị động viên không có trong kế hoạch được phê duyệt; lợi dụng, lạm dụng việc thực hiện nhiệm vụ xây dựng, huy động lực lượng dự bị động viên để xâm phạm lợi ích quốc gia, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; phân biệt đối xử về giới trong xây dựng, huy động lực lượng dự bị động viên.
Ba là, quy định nguyên tắc xây dựng, huy động Lực lượng dự bị động viên (Điều 3).
Theo đó, có 6 nguyên tắc việc xây dựng, huy động Lực lượng dự bị động viên: Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự thống lĩnh của Chủ tịch nước, sự quản lý tập trung, thống nhất của Chính phủ và sự chỉ huy, chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; xây dựng lực lượng dự bị động viên vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, có trình độ chiến đấu cao và được quản lý chặt chẽ; huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh; phù hợp với tình hình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước; xây dựng, huy động đơn vị dự bị động viên bảo đảm đủ quân số, phương tiện kỹ thuật dự bị; đúng tiêu chuẩn, thời gian; bảo đảm bí mật, an toàn theo quy định của pháp luật và kế hoạch dược phê duyệt; ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật, công nghệ trong xây dựng, huy động lực lượng dự bị động viên.
Bốn là, việc quy định độ tuổi của quân nhân dự bị đã được đánh giá kỹ tác động, bảo đảm nguồn để huy động vào lực lượng dự bị động viên.
Điều 17 quy định nam quân nhân chuyên nghiệp dự bị không quá 40 tuổi; hạ sĩ quan, binh sĩ dự bị không quá 35 tuổi được sắp xếp vào đơn vị chiến đấu. Nam quân nhân chuyên nghiệp dự bị và hạ sĩ quan, binh sĩ dự bị không quá 45 tuổi; nữ quân nhân dự bị không quá 40 tuổi được sắp xếp vào đơn vị bảo đảm chiến đấu.
Năm là, quân nhân dự bị được hoãn diễn tập nếu gia đình khó khăn đột xuất
Theo đó, Luật quy định một số trường hợp quân nhân dự bị được hoãn tập trung huấn luyện, diễn tập, kiểm tra sẵn sàng động viên, sẵn sàng chiếu đấu.
- Khi thời gian đó trùng với thời gian thi tuyển công chức, viên chức; thi kết thúc học kỳ, khóa học… nếu có xác nhận của cơ quan, tổ chức nơi quân nhân dự bị đang theo học, làm việc.
- Hai là, khi quân nhân đó bị ốm đau hoặc hoàn cảnh gia đình, bản thân khó khăn đột xuất không thể tham gia và được đơn vị hành chính có thẩm quyền nơi quân nhân cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi quân nhân học tập, làm việc xác nhận.
Trong thời gian tập trung huấn luyện, diễn tập, kiểm tra sẵn sàng động viên, sẵn sàng chiếu đấu, quân nhân dự bị được hưởng các chế độ như: Hưởng nguyên lương và các khoản phụ cấp, trợ cấp, phúc lợi, phụ cấp đi đường, tiền tàu xe nếu làm việc, học tập trong cơ quan, tổ chức và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước.
Nếu không thuộc trường hợp trên, quân nhân dự bị sẽ được hưởng phụ cấp theo ngày làm việc dựa trên mức tiền lương cơ bản của sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp tại ngũ hoặc bằng mức phụ cấp theo cấp bậc quân hàm của hạ sĩ quan, binh sĩ tại ngũ; tiền tàu xe và phụ cấp đi đường như đối với quân nhân tại ngũ.
Sáu là về huấn luyện, diễn tập, kiểm tra sẵn sàng động viên, sẵn sàng chiến đấu quân nhân dự bị, phương tiện kỹ thuật dự bị, đơn vị dự bị động viên (Điều 22).
Chủ nhiệm Uỷ ban Quốc phòng và An ninh cho biết, có ý kiến đề nghị bổ sung các trường hợp được hoãn như: đi làm ăn xa, lao động chính của gia đình, dịch bệnh nguy hiểm, thiên tai hoặc người lao động không được chủ doanh nghiệp tạo điều kiện tham gia.
Luật Lực lượng dự bị động viên gồm 5 chương, 41 điều, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2020 và Pháp lệnh về lực lượng dự bị động viên ngày 27 tháng 8 năm 1996 hết hiệu lực kể từ ngày Luật này có hiệu lực thi hành .
2. Luật Khiếu nại 2011 số 02/2011/QH13
Nếu như trước đây các bước của việc khiếu nại được quy định lồng ghép vào thủ tục giải quyết khiếu nại khiến cho người dân mất nhiều thời gian để tìm hiểu và dễ gây nhầm lẫn, thì Luật Khiếu nại năm 2011 đã khắc phục được hạn chế này. Theo đó, Luật Khiếu nại năm 2011 đã dành riêng Điều 7 để đưa ra những quy định rõ ràng về trình tự khiếu nại.
Cụ thể, khi có căn cứ cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính là trái pháp luật, xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của mình thì người khiếu nại khiếu nại lần đầu đến người đã ra quyết định hành chính hoặc cơ quan có người có hành vi hành chính hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.
Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết lần đầu hoặc quá thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khiếu nại lần hai đến Thủ trưởng cấp trên trực tiếp của người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.
Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần hai hoặc hết thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật tố tụng hành chính. Đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của Bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ (sau đây gọi chung là Bộ trưởng) thì người khiếu nại khiếu nại đến Bộ trưởng hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.
Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của Bộ trưởng hoặc quá thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Toà án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.
Đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh) thì người khiếu nại khiếu nại lần đầu đến Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính. Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh hoặc hết thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khiếu nại lần hai đến Bộ trưởng quản lý ngành, lĩnh vực hoặc khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính. Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết lần hai của Bộ trưởng hoặc hết thời hạn quy định mà khiếu nại không được giải quyết thì có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại Tòa án theo quy định của Luật Tố tụng hành chính.
Đối với quy định về thụ lý giải quyết khiếu nại, Luật Khiếu nại năm 2011 quy định rõ, trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại thuộc thẩm quyền mà không thuộc một trong các trường hợp được quy định tại Điều 11 của Luật này, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu phải thụ lý giải quyết; thông báo bằng văn bản cho người khiếu nại, cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền chuyển khiếu nại đến và cơ quan thanh tra nhà nước cùng cấp biết, trường hợp không thụ lý giải quyết thì phải nêu rõ lý do.
Thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu không quá 30 ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết có thể kéo dài hơn nhưng không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý. Ở vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì thời hạn giải quyết khiếu nại không quá 45 ngày, kể từ ngày thụ lý; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết có thể kéo dài hơn nhưng không quá 60 ngày, kể từ ngày thụ lý.
Về việc xác minh nội dung khiếu nại, trong thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu, người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu có trách nhiệm: Kiểm tra lại quyết định hành chính, hành vi hành chính của mình, của người có trách nhiệm do mình quản lý trực tiếp, nếu khiếu nại đúng thì ra quyết định giải quyết khiếu nại ngay; Trường hợp chưa có cơ sở kết luận nội dung khiếu nại thì tự mình tiến hành xác minh, kết luận nội dung khiếu nại hoặc giao cơ quan thanh tra nhà nước cùng cấp hoặc cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm (sau đây gọi chung là người có trách nhiệm xác minh) xác minh nội dung khiếu nại, kiến nghị giải quyết khiếu nại. Việc xác minh phải bảo đảm khách quan, chính xác, kịp thời.
Đối với quy định về tổ chức đối thoại, theo Luật Khiếu nại năm 2011, trong quá trình giải quyết khiếu nại lần đầu, nếu yêu cầu của người khiếu nại và kết quả xác minh nội dung khiếu nại còn khác nhau thì người giải quyết khiếu nại tổ chức đối thoại với người khiếu nại, người bị khiếu nại, người có quyền và nghĩa vụ liên quan, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để làm rõ nội dung khiếu nại, yêu cầu của người khiếu nại và hướng giải quyết khiếu nại; việc đối thoại phải tiến hành công khai, dân chủ.
Kết quả đối thoại là một trong các căn cứ để giải quyết khiếu nại. Người giải quyết khiếu nại lần đầu phải ra quyết định giải quyết khiếu nại. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày có quyết định giải quyết khiếu nại, người giải quyết khiếu nại lần đầu có trách nhiệm gửi quyết định giải quyết khiếu nại cho người khiếu nại, thủ trưởng cấp trên trực tiếp của người giải quyết khiếu nại hoặc người có thẩm quyền, người có quyền, nghĩa vụ liên quan, cơ quan, tổ chức, cá nhân đã chuyển khiếu nại đến và cơ quan thanh tra nhà nước cùng cấp.
Đối với khiếu nại lần hai hoặc khởi kiện vụ án hành chính, trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại quy định tại Điều 28 của Luật này mà khiếu nại lần đầu không được giải quyết hoặc kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu mà người khiếu nại không đồng ý thì có quyền khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai; đối với vùng sâu, vùng xa đi lại khó khăn thì thời hạn có thể kéo dài hơn nhưng không quá 45 ngày.
Về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp, Luật Khiếu nại năm 2011 quy định, trong quá trình giải quyết khiếu nại, nếu xét thấy việc thi hành quyết định hành chính bị khiếu nại sẽ gây hậu quả khó khắc phục, thì người giải quyết khiếu nại phải ra quyết định tạm đình chỉ việc thi hành quyết định đó. Thời hạn tạm đình chỉ không vượt quá thời gian còn lại của thời hạn giải quyết. Quyết định tạm đình chỉ phải được gửi cho người khiếu nại, người bị khiếu nại, người có quyền, nghĩa vụ liên quan và những người có trách nhiệm thi hành khác. Khi xét thấy lý do của việc tạm đình chỉ không còn thì phải hủy bỏ ngay quyết định tạm đình chỉ đó.
3. Luật Tố cáo số 25/2018/QH14
Những điểm mới của Luật Tố cáo năm 2018:
– Bổ sung quyền và nghĩa vụ của người tố cáo, người bị tố cáo, người giải quyết tố cáo.
+ Đối với người tố cáo: bố sung quyền rút tố cáo và bổ sung nghĩa vụ hợp tác với người giải quyết tố cáo khi có yêu cầu. (Điều 9)
+ Đối với người bị tố cáo: Bổ sung quyền được bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp khi chưa có kết luận nội dung tố cáo của người giải quyết tố cáo; khiếu nại quyết định xử lý của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật. Bổ sung nghĩa vụ có mặt để làm việc theo yêu cầu của người giải quyết tố cáo (Điều 10)
+ Đối với người giải quyết tố cáo: Bổ sung quyền và nghĩa vụ của người giải quyết tố cáo (yêu cầu người bị tố cáo đến làm việc; thông báo cho người tố cáo về việc thụ lý hoặc không thụ lý tố cáo, việc chuyển vụ việc tố cáo đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết, gia hạn giải quyết tố cáo, đình chỉ, tạm đình chỉ việc giải quyết tố cáo, tiếp tục giải quyết tố cáo, kết luận nội dung tố cáo; thông báo cho người bị tố cáo về nội dung tố cáo, gia hạn giải quyết tố cáo, đình chỉ, tạm đình chỉ việc giải quyết tố cáo, tiếp tục giải quyết tố cáo; gửi kết luận nội dung tố cáo cho người bị tố cáo) (Điều 11)
– Giải quyết tố cáo đối với hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ.
Về nguyên tắc xác định thẩm quyền giải quyết tố cáo: Luật Tố cáo 2018 bổ sung thêm một số nguyên tắc: tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ của cán bộ, công chức, viên chức xảy ra trong thời gian công tác trước đây nay đã chuyển sang cơ quan, tổ chức khác hoặc không còn là cán bộ, công chức, viên chức; tố cáo đối với cán bộ, công chức, viên chức của cơ quan, tố chức đã hợp nhất, sáp nhập, chia, tách; tố cáo cán bộ, công chức, viên chức của cơ quan, tổ chức đã bị giải thể; tố cáo cơ quan, tố chức trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ (Điều 12).
Về thẩm quyền giải quyết tố cáo: bổ sung thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ trong cơ quan hành chính nhà nước (Điều 13). Bổ sung thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ trong cơ quan khác của Nhà nước (Điều 14, 15, 16, 17 Luật tố cáo 2018)
Luật cũng quy định về thẩm quyền giải quyết tố cáo trong các đơn vị sự nghiệp công lập (Điều 18) và thẩm quyền giải quyết tố cáo hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệrn vụ của người có chức danh, chức vụ trong doanh nghiệp nhà nước (Điều 19). Luật cũng giao Cơ quan trung ương của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội hướng dẫn về thẩm quyền giải quyết tố cáo đối với các hành vi vi phạm pháp luật trong việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội (Điều 20)
– Về tiếp nhận, xử lý ban đầu thông tin tố cáo
Giảm thời gian xử lý ban đầu thông tin tố cáo: Trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận được tố cáo, cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm vào sổ, phân loại, xử lý ban đầu thông tin tố cáo, kiểm tra, xác minh. Trường hợp phải kiểm tra, xác minh tại nhiều địa điểm hoặc phải ủy quyền cho cơ quan, tổ chức có thẩm quyền kiểm tra, xác minh thì thời hạn này có thể kéo dài hơn nhưng không quá 10 ngày làm việc (Điều 24). (Luật Tố cáo 2011 quy định trong thời hạn 10 ngày … có thể dài hơn nhưng không quá 15 ngày).
– Về trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo
+ Nếu như Luật Tố cáo năm 2011 quy định trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo bắt đầu từ khâu tiếp nhận tố cáo thì Luật Tố cáo năm 2018 quy định trình tự, thủ tục này bắt đầu từ khâu thụ lý tố cáo.
+ Bổ sung quy định về điều kiện thụ lý tố cáo (Khoản 1 Điều 29);
+ Bổ sung nội dung: Kết thúc việc xác minh nội dung tố cáo, người được giao xác minh phải có văn bản báo cáo người giải quyết tố cáo về kết quả xác minh nội dung tố cáo và kiến nghị biện pháp xử lý.
+ Sửa đổi quy định về thời hạn giải quyết tố cáo. Theo đó, thời hạn giải quyết tố cáo là không quá 30 ngày kể từ ngày thụ lý tố cáo. Đối với vụ việc phức tạp thì có thể gia hạn giải quyêt tố cáo một lần nhưng không quá 30 ngày. Đối với vụ việc đặc biệt phức tạp thì có thể gia hạn giải quyết tố cáo hai lần, mỗi lần không quá 30 ngày.
+ Bổ sung quy định về rút tố cáo (Điều 33).
+ Bổ sung quy định về tạm đình chỉ giải quyết tố cáo, đình chỉ việc giải quyết tố cáo. Theo đó, Luật quy định cụ thể các căn cứ đế tạm đình chỉ hoặc đình chỉ (Điều 34).
+ Quy định cụ thể về việc tố cáo tiếp, việc xử lý đối vói tố cáo tiếp và các căn cứ để giải quyết lại vụ việc tố cáo (Điều 37). Bên cạnh đó, Luật quy định về việc giải quyết tố cáo trong trường hợp vụ việc quá thời hạn quy định mà không được giải quyết (Điều 38).
– Trách nhiệm tổ chức thực hiện kết luận nội dung tố cáo
Luật đã bổ sung Chương V về tổ chức thực hiện kết luận nội dung tố cáo, trong đó quy định về trách nhiệm của người giải quyết tố cáo; trách nhiệm của người bị tố cáo; trách nhiệm của cơ quan, tô chức, cá nhân có liên quan trong việc thực hiện kết luận nội dung tố cáo (từ Điều 44 đến Điều 46).
– Bảo vệ người tố cáo
Luật Tố cáo năm 2018 đã dành một chương (Chương VI) quy định về bảo vệ người tố cáo. Theo đó, Luật quy định cụ thể các vấn đề cơ bản như: Người được bảo vệ, bao gồm: người tố cáo, vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người tố cáo (Điều 47); phạm vi bảo vệ, bao gồm: bảo vệ bí mật thông tin của người tố cáo; bảo vệ vị trí công tác, việc làm, tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người được bảo vệ (Điều 47); Bổ sung nội dung quy định về biện pháp bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, tài sản, danh dự, nhân phẩm (đưa người được bảo vệ đến nơi an toàn; yêu cầu người có hành vi xâm hại hoặc đe dọa xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của người được bảo vệ chấm dứt hành vi vi phạm).
4. Luật Tiếp công dân số 42/2013/QH13
Trách nhiệm của cán bộ tiếp công dân
Theo Điều 8 Luật Tiếp công dân năm 2013, khi tiếp công dân, người tiếp công dân phải bảo đảm trang phục chỉnh tề, có đeo thẻ công chức, viên chức hoặc phù hiệu theo quy định; Yêu cầu người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh nêu rõ họ tên, địa chỉ hoặc xuất trình giấy tờ tùy thân, giấy ủy quyền (nếu có); có đơn hoặc trình bày rõ ràng nội dung khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; cung cấp thông tin, tài liệu cần thiết cho việc tiếp nhận, thụ lý vụ việc; Có thái độ đúng mực, tôn trọng công dân, lắng nghe, tiếp nhận đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh hoặc ghi chép đầy đủ, chính xác nội dung mà người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh trình bày;
Ngoài ra, cán bộ tiếp công dân phải giải thích, hướng dẫn cho người đến khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh chấp hành chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật, kết luận, quyết định giải quyết đã có hiệu lực pháp luật của cơ quan có thẩm quyền; hướng dẫn người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh đến đúng cơ quan hoặc người có thẩm quyền giải quyết; Trực tiếp xử lý hoặc phân loại, chuyển đơn, trình người có thẩm quyền xử lý khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; thông báo kết quả xử lý khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh cho công dân;
Bên cạnh đó, yêu cầu người vi phạm nội quy nơi tiếp công dân chấm dứt hành vi vi phạm; trong trường hợp cần thiết, lập biên bản về việc vi phạm và yêu cầu cơ quan chức năng xử lý theo quy định của pháp luật.
Các trường hợp từ chối tiếp công dân
Tiếp công dân là trách nhiệm của cơ quan quản lý Nhà nước, Đại biểu Quốc hội, Đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, tuy nhiên việc từ chối tiếp công dân cũng được quy định cụ thể tại Điều 9 Luật Tiếp công dân năm 2013.
Theo đó, người trong tình trạng say do dùng chất kích thích, người mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình; Người có hành vi đe dọa, xúc phạm cơ quan, tổ chức, đơn vị, người tiếp công dân, người thi hành công vụ hoặc có hành vi khác vi phạm nội quy nơi tiếp công dân;
Người khiếu nại, tố cáo về vụ việc đã giải quyết đúng chính sách, pháp luật, được cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiểm tra, rà soát, thông báo bằng văn bản và đã được tiếp, giải thích, hướng dẫn nhưng vẫn cố tình khiếu nại, tố cáo kéo dài…
Mặt khác, theo quy định tại Điều 4 Thông tư 06/2014/TT-TTCP, khi từ chối tiếp công dân, người tiếp công dân phải giải thích cho công dân được biết lý do. Trong trường hợp vụ việc đã được giải quyết đúng pháp luật có thông báo bằng văn bản và được gải thích, hướng dẫn nhưng công dân cố tình khiếu nại tố cáo dài thì người tiếp công dân ra Thông báo từ chối tiếp công dân.
Lịch tiếp công dân phải được niêm yết công khai
Theo Điều 24 Luật Tiếp công dân năm 2013, ban tiếp công dân ở trung ương, ban tiếp công dân cấp tỉnh, cấp huyện có trách nhiệm niêm yết công khai tại trụ sở lịch tiếp công dân của lãnh đạo các cơ quan Đảng và Nhà nước ở trung ương hoặc địa phương.
Đồng thời, cơ quan, tổ chức, đơn vị có trách nhiệm niêm yết công khai lịch tiếp công dân của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình tại trụ sở cơ quan, tổ chức, đơn vị, tại địa điểm tiếp công dân và công bố trên trang thông tin điện tử của cơ quan, tổ chức, đơn vị (nếu có). Ngoài ra, theo điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị định 64/2014/NĐ-CP, người tiếp công dân có trách nhiệm tiếp công dân theo lịch tiếp công dân đã được công bố. Trường hợp tiếp công dân đột xuất thực hiện theo sự phân công của trưởng ban tiếp công dân hoặc theo yêu cầu của lãnh đạo cơ quan, tổ chức mình.
5. Luật Phòng, chống tham nhũng số 36/2018/QH14
Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 gồm 10 chương, 96 điều có hiệu lực từ ngày 01/7/2019 với một số nội dung cơ bản sau:
Về phạm vi điều chỉnh: Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định về phòng ngừa, phát hiện tham nhũng; xử lý tham nhũng và hành vi khác vi phạm pháp luật về phòng, chống tham nhũng. Luật này nêu rõ các hành vi tham nhũng, gồm các hành vi tham nhũng trong khu vực Nhà nước và trong khu vực ngoài Nhà nước, cụ thể:
- Các hành vi tham nhũng trong khu vực Nhà nước do người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị khu vực Nhà nước thực hiện, bao gồm: Tham ô tài sản; nhận hối lộ; lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi; giả mạo trong công tác vì vụ lợi; đưa hối lộ, môi giới hối lộ để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản công vì vụ lợi; nhũng nhiễu vì vụ lợi; không thực hiện, thực hiện không đúng hoặc không đầy đủ nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi; lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi.
- Các hành vi tham nhũng trong khu vực ngoài Nhà nước do người có chức vụ, quyền hạn trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài Nhà nước thực hiện, bao gồm: Tham ô tài sản; nhận hối lộ; đưa hối lộ, môi giới hối lộ để giải quyết công việc của doanh nghiệp, tổ chức mình vì vụ lợi.
Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 đã quy định bổ sung thêm việc áp dụng Luật Phòng, chống tham nhũng đối với doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước; bổ sung chương mới về phòng, chống tham nhũng trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước bao gồm các nội dung: xây dựng văn hóa kinh doanh lành mạnh, không tham nhũng; việc áp dụng Luật Phòng, chống tham nhũng đối với các doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước. Điều này thể hiện tinh thần từng bước mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật đối với khu vực ngoài nhà nước.
Về nội dung phòng ngừa tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị,Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định: Công khai, minh bạch về tổ chức và hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị; Xây dựng và thực hiện định mức, tiêu chuẩn, chế độ; Thực hiện quy tắc ứng xử của người có chức vụ, quyền hạn; Chuyển đổi vị trí công tác của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; Cải cách hành chính, ứng dụng khoa học, công nghệ trong quản lý và thanh toán không dùng tiền mặt; Kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị.
Về phát hiện tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị: Luật Phòng, chống tham nhũngnăm 2018 tiếp tục quy định về công tác kiểm tra và tự kiểm tra của cơ quan, tổ chức, đơn vị; Phát hiện tham nhũng thông qua hoạt động giám sát, thanh tra, kiểm toán; Phản ánh, tố cáo, báo cáo về hành vi tham nhũng. Trong đó có bổ sung quy định kiểm tra hoạt động chống tham nhũng trong cơ quan thanh tra, kiểm toán nhà nước, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân; quy định thẩm quyền của cơ quan thanh tra, kiểm toán nhà nước trong thanh tra, kiểm toán vụ việc có dấu hiệu tham nhũng; xử lý vụ việc có dấu hiệu tham nhũng được phát hiện qua hoạt động thanh tra, kiểm toán; xử lý vi phạm trong hoạt động thanh tra, kiểm toán.
Về chế độ trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định nội dung trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong phòng, chống tham nhũng; Trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong việc áp dụng biện pháp tạm đình chỉ công tác, tạm thời chuyển sang vị trí công tác khác đối với người có hành vi vi phạm; Trách nhiệm và xử lý trách nhiệm của người đứng đầu, cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị khi để xảy ra tham nhũng trong cơ quan, tổ chức, đơn vị do mình quản lý, phụ trách.
Về xử lý tham nhũng và các hành vi khác vi phạm pháp luật về phòng, chống tham nhũng, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 quy định xử lý tham nhũng(xử lý người có hành vi tham nhũng, xử lý tài sản tham nhũng), xử lý hành vi khác vi phạm pháp luật về phòng, chống tham nhũngtrong các cơ quan, tổ chức, đơn vị và trong doanh nghiệp, tổ chức khu vực ngoài nhà nước.
Ngoài ra, Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018 còn quy định các nội dung như: Trách nhiệm của xã hội trong phòng, chống tham nhũng; Trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong phòng, chống tham nhũng; Hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng.
Luật Phòng, chống tham nhũng số 36/2018/QH14 có hiệu lực từ ngày 01/7/2019.
6. Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí số 44/2013/QH13
Ngày 26-11-2013 tại kỳ họp thứ sáu Quốc hội khóa XIII thông qua Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí (THTK, CLP) thay thế Luật THTK, CLP năm 2005. Luật này ( số hiệu 44/2013/QH13) đã được Chủ tịch nước ký lệnh công bố ngày 9-12-2013 và có hiệu lực từ ngày 01/7/2014.
Luật THTK, CLP hiện hành gồm 05 chương với 80 điều. So với Luật THTK, CLP năm 2005, Luật này giảm 06 chương và 06 điều. Việc giảm số chương, điều nói trên là để xử lý những nội dung trùng lặp của Luật.
Luật THTK, CLP năm 2013 quy định đối tượng điều chỉnh gồm 03 nhóm là:
1- Cơ quan, tổ chức, cá nhân quản lý, sử dụng ngân sách Nhà nước, vốn nhà nước, tài sản Nhà nước, lao động, thời gian lao động trong khu vực nhà nước;
2- Cơ quan, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân quản lý, khai thác và sử dụng tài nguyên;
3- Tổ chức, hộ gia đình và cá nhân khác.
Về nguyên tắc THTK, CLP, tại Điều 4, Luật đã bổ sung làm rõ nguyên tắc THTK, CLP là nhiệm vụ thường xuyên từ chủ trương, đường lối, cơ chế chính sách đến tổ chức thực hiện gắn với kiểm tra, giám sát; THTK, CLP phải gắn với cải cách hành chính và bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ được giao, không để ảnh hưởng đến hoạt động của cơ quan, tổ chức. Luật THTK, CLP năm 2013 đã bổ sung quy định: công khai các hoạt động quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước, vốn nhà nước, tài sản nhà nước, lao động, thời gian lao động, tài nguyên là biện pháp để bảo đảm THTK, ngăn chặn, phòng ngừa lãng phí. Để tạo điều kiện cho việc giám sát THTK, CLP, cũng như tăng tính nghiêm minh trong thực thi pháp luật, Luật này cũng bổ sung quy định công khai kết quả THTK, CLP và kết quả xử lý hành vi lãng phí. Luật cũng đã bổ sung, làm rõ một số quy định liên quan việc phát hiện lãng phí và xử lý thông tin phát hiện lãng phí; định mức, tiêu chuẩn, chế độ; hành vi gây lãng phí. Luật quy yêu cầu phát hiện lãng phí và trách nhiệm xử lý thông tin phát hiện lãng phí tạo cơ chế khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia phát hiện và cung cấp thông tin về lãng phí, góp phần ngăn chặn lãng phí cũng như để xác định trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc để xảy ra lãng phí. Thông tin phát hiện lãng phí dưới mọi hình thức phải được người đứng đầu cơ quan, tổ chức nơi có lãng phí xem xét, xử lý, khắc phục kịp thời và thực hiện việc giải trình khi để xảy ra lãng phí.
Luật quy định về hệ thống định mức, tiêu chuẩn, chế độ làm căn cứ quan trọng để xem xét, đánh giá THTK,CLP một cách khách quan và phát huy hiệu quả. Theo đó, Luật quy định 03 nhóm định mức, tiêu chuẩn, chế độ; các nguyên tắc ban hành định mức, tiêu chuẩn, chế độ; trách nhiệm ban hành, thực hiện kiểm tra việc thực hiện định mức, tiêu chuẩn, chế độ. Luật cũng quy định các hành vi vi phạm trong ban hành, thực hiện, kiểm tra định mức, tiêu chuẩn, chế độ là: Ban hành định mức, tiêu chuẩn, chế độ trái nguyên tắc; thực hiện vượt định mức, tiêu chuẩn, chế độ; không tổ chức kiểm tra thực hiện định mức, tiêu chuẩn, chế độ; không xử lý hoặc báo cáo cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý kịp thời trường hợp thực hiện không đúng định mức, tiêu chuẩn, chế độ và các chế tài đối với các hành vi vi phạm.
Một điều đáng chú ý nữa là, Luật đã quy định về hành vi gây lãng phí tương đối đầy đủ và toàn diện. Hành vi này được quy định chi tiết trong một số lĩnh vực như: lập, thẩm định, phê duyệt, phân bổ và giao dự toán, quyết toán, quản lý, sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước; quỹ có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước; hành vi gây lãng phí trong mua sắm, trang bị, quản lý, sử dụng phương tiện đi lại, phương tiện, thiết bị làm việc và phương tiện thông tin, liên lạc; hành vi gây lãng phí trong đầu tư xây dựng; quản lý, sử dụng trụ sở làm việc, nhà ở công vụ và công trình phúc lợi công cộng. Đây là những quy định giúp nhận diện hành vi gây lãng phí thuận lợi hơn, đưa công tác chống lãng phí đi vào thực chất và hiệu quả. Luật đã xác định mục tiêu, chỉ tiêu tiết kiệm, yêu cầu CLP. Từ mục tiêu này, các cơ quan, tổ chức xác định rõ biện pháp thực hiện, trong đó chú trọng cơ chế giám sát THTK,CLP.
Luật đã hoàn thiện cơ chế đấu tranh chống các hành vi gây lãng phí thông qua việc tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán; bổ sung quy định đối với các trường hợp sử dụng kinh phí ngân sách Nhà nước để tổ chức hội nghị, hội thảo, tọa đàm, đi công tác... phải thực hiện kiểm toán nội bộ hằng năm để kịp thời phát hiện, xử lý các hành vi vi phạm.
Để khuyến khích các cơ quan, tổ chức, cá nhân THTK, tham gia phát hiện lãng phí, Luật (sửa đổi) bổ sung quy định việc khen thưởng và nguồn khen thưởng đối với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thành tích trong THTK, tham gia phát hiện lãng phí, CLP. Đồng thời, Luật cũng quy định cụ thể các trường hợp phải xử lý vi phạm và bồi thường thiệt hại.
7. Chỉ thị số 31/CT-TTg ngày 04/12/2019 của Thủ tướng Chính phủ về “Tăng cường các giải pháp giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên”.
Ngày 04/12/2019, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ký ban hành Chỉ thị số 31/CT-TTg tăng cường giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên.
Theo đó, chỉ thị nêu rõ: Thời gian qua, công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên đã đạt được những kết quả tích cực.
Phần lớn học sinh, sinh viên có đạo đức tốt, kính trọng ông bà, cha mẹ, thầy cô giáo, người lớn tuổi; có tinh thần đoàn kết, tích cực học tập, rèn luyện, tu dưỡng; có ý thức chấp hành pháp luật tốt, lối sống đẹp, lành mạnh; có lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc; tham gia các hoạt động vì cộng đồng.
Tuy nhiên, vẫn còn một bộ phận học sinh, sinh viên chưa có ý thức học tập tốt, có biểu hiện lệch chuẩn về đạo đức, lối sống; tình trạng bạo lực học đường, tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật vẫn còn diễn ra.
Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng trên là do công tác giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên vẫn chưa được các cấp, các ngành quan tâm đúng mức; sự phối hợp giữa nhà trường, gia đình, xã hội còn thiếu đồng bộ, chặt chẽ.
Công tác chỉ đạo, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra, xử lý vi phạm chưa sâu sát, quyết liệt; chưa phát huy tốt vai trò của cán bộ, nhà giáo, học sinh, sinh viên, phụ huynh, các tổ chức, đoàn thể chính trị, xã hội và chính quyền địa phương trong quản lý các nhà trường.
Vẫn còn một số thầy, cô giáo chưa thực sự là tấm gương về đạo đức, lối sống; nội dung và phương pháp giáo dục đạo đức, lối sống chậm đổi mới, chưa phù hợp với thực tiễn.
Mặt trái của nền kinh tế thị trường; hành vi bạo lực xuất hiện ngày càng nhiều trong đời sống xã hội, trên phim ảnh, internet, sách báo... đã tác động trực tiếp đến sự hình thành nhân cách, đạo đức, lối sống của học sinh, sinh viên.
Do đặc thù tâm lý lứa tuổi, nếu không được tư vấn, hỗ trợ kịp thời để giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong học tập, các mối quan hệ xã hội sẽ dẫn đến hậu quả đáng tiếc.
Để khắc phục những hạn chế nêu trên, thực hiện chủ trương “dạy chữ” đi đôi với “dạy người”, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Giáo dục và Đào tạo tăng cường giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên thông qua các hoạt động giáo dục, đào tạo và trải nghiệm.
Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin; khuyến khích cán bộ, nhà giáo, học sinh, sinh viên xây dựng các bài giảng, video clip, hình ảnh, bài viết về giáo dục đạo đức, lối sống phù hợp với từng cấp học, trình độ đào tạo; Hướng dẫn học sinh thực hiện 5 Điều Bác Hồ dạy phù hợp với lứa tuổi;Tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức nghề nghiệp, lối sống văn hóa cho học sinh, sinh viên gắn với việc thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15 tháng 5 năm 2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; Xây dựng và nhân rộng mô hình tốt, điển hình tiêu biểu trong giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên.
Chỉ đạo thực hiện nghiêm túc các quy định pháp luật về xây dựng trường học an toàn, lành mạnh, thân thiện; các đề án đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt về giáo dục đạo đức, lối sống; xây dựng văn hóa trường học.